Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Khẳng định vị thế gốm sứ Minh Long

Công ty Minh Long được thành lập vào cuối những năm 1970, nhưng Minh Long đã thực sự sản xuất gốm sứ trong hơn một thế kỷ. Tất cả các sản phẩm được thủ công bởi các thợ thủ công được đào tạo chuyên biệt. Đội ngũ tận tâm của chúng tôi có chất lượng vượt trội, sử dụng công nghệ tiên tiến của Đức và Nhật Bản để đảm bảo rằng chúng tôi đáp ứng hoặc vượt quá sự mong đợi của khách hàng và vượt qua tất cả các tiêu chuẩn ngành. Gốm sứ đẹp nhất của Minh Long được xuất khẩu rộng rãi trên khắp thế giới. Đây không phải là tất cả. Nghệ thuật gốm của chúng tôi đã được trình bày như là quà tặng quốc gia cho nhiều người đứng đầu nhà nước trên toàn thế giới trong các sự kiện nổi bật được tổ chức tại Việt Nam. Quả thật là Gốm sứ Minh Long nơi mà truyền thống và nghệ thuật đến với nhau ...

Ảnh 1. Thương hiệu gốm sứ Minh Long - khẳng định tầm cao mới


Sinh ra trong một gia tộc có nhiều đời làm gốm sứ ở Bình Dương, ông Lý Ngọc Minh được kế thừa vốn tri thức sâu rộng và kinh nghiệm quý báu về gốm sứ. Ông đã dành hết tâm huyết để nghiên cứu về văn hóa, kỹ thuật và nghệ thuật gốm sứ của nhiều đất nước khác nhau trên thế giới, nhằm tạo ra những sản phẩm hoàn hảo về chất lượng và mỹ thuật.

Từ năm 1996, với chiến lược tập trung cho công nghệ và thiết kế, Công ty Minh Long I đã đầu tư hàng triệu USD để nhập lò nung của Châu Âu và thuê kỹ sư nước ngoài về lắp ráp. Từ đó, Công ty đã có những bí quyết sáng tạo riêng như thêm bớt các chi tiết của lò nung để có thể điều chỉnh ngọn lửa phù hợp nhằm tạo sự độc đáo, độ mịn màng và có chiều sâu cho màu men. Ngoài ra, các loại máy ép lực, máy rót tự động, máy tạo hình trục lăn, máy đúc áp lực cao... cũng được đầu tư, góp phần giúp tạo ra những sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ cao cấp mang thương hiệu Minh Long I.

Nhờ dây chuyền sản xuất tiên tiến và hiện đại mang tầm cỡ quốc tế, sản phẩm gốm sứ Minh Long I luôn có chất lượng rất cao và ổn định, đủ sức chinh phục được người tiêu dùng sành điệu và khó tính nhất. Đặc biệt, sản phẩm Minh Long I còn mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam với những hình ảnh trang trí như: luỹ tre làng, cánh cò quê hương, cậu bé chăn trâu thổi sáo... hay vịnh Hạ Long, chùa Một Cột, sông nước miền Tây… được khắc hoạ vô cùng sắc sảo và tinh tế trên từng sản phẩm.

Gốm sứ Minh Long I sử dụng nguyên liệu chủ yếu gồm 3 loại chính: cao lanh, đá tràng thạch, thạch anh kết hợp cùng các chất phụ gia khác. Các nguyên liệu được chọn lọc từ những nơi tốt nhất trong nước hay ở các nước như: Mỹ, Anh, Đức, Nga, Canada, New Zealand. Quy trình sản xuất một sản phẩm thông thường trải qua gần 20 công đoạn khác nhau, từ công đoạn đầu tiên là xử lý nguyên liệu đến công đoạn cuối cùng là nung sản phẩm. Tất cả các công đoạn đều được kiểm tra giám sát một cách khoa học và hết sức nghiêm ngặt. Ở đây, do sản phẩm được nung ở nhiệt độ cao, lên tới 1380°C đối với sứ trắng nên tạo được tính bền chắc, rất khó sứt mẻ, hay trầy xước do va chạm khi sử dụng.

Ảnh 2. Nét đặc sắc của bộ bàn trà từ gốm sứ Minh Long 


Ngoài việc đầu tư công nghệ trong sản xuất, Minh Long I còn luôn chủ động quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình đến với người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối và trưng bày sản phẩm. Minh Long I cũng chủ động liên kết với các đơn vị khác, nhất là liên kết với các nhà hàng, khách sạn thuộc nhiều tỉnh, thành phố để quảng bá sản phẩm thông qua nhiều chính sách ưu đãi. Điều này thực sự là một cách làm hiệu quả không chỉ giúp đẩy mạnh tiêu thụ mà còn làm cho du khách trong nước và quốc tế biết nhiều hơn về thương hiệu gốm sứ Minh Long I.
Đặc biệt, các sản phẩm sứ nghệ thuật cao cấp Minh Long I đã được chọn làm quà tặng trong những chuyến thăm viếng ngoại giao của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam. Nhờ đó, sản phẩm Minh Long I đã vinh dự đến được tay của hơn 40 nhà lãnh đạo các nước trên thế giới, trong đó có Đức Giáo Hoàng, Tổng thống Mỹ, Tổng Bí thư Trung Quốc, Nhật Hoàng...
Sản phẩm sứ Minh Long 1 không chỉ đẹp mà còn an toàn cho sức khoẻ của người tiêu dùng. Họ thực sự thu hút nhiều khách du lịch quốc tế từ Nhật Bản, Hoa Kỳ, Châu Âu, vv
Nếu bạn có cơ hội đến thăm Bình Dương trong chuyến đi Việt Nam, bạn nên đến làng gốm Bình Dương, nơi bạn có thể thưởng thức đồ sứ đẹp và chất lượng cao hoặc mua một số sản phẩm làm quà tặng cho người thân của bạn.

Nghe chuyện Gốm Việt

Câu chuyện “ gốm sứ trên biển Đông”
Gốm sứ Việt Nam từ xưa đã được xuất khẩu qua nhiều nước, tuy nhiên theo sự tìm hiểu của các nhà khoa học cho thấy không hề có một chiếc thuyền nào trên biển với 100% là gốm Việt Nam.
Đồ gốm trên thuyền đều đượcbao gồm gốm Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc …  Mặc dù sự xuất khẩu gốm và gốm Việt Nam khá ư là được biết đến bởi nhiều nước, tuy nhiên sự xuất khẩu bán đi tại có phần hạn hẹp.
Mãi cho tới năm 1997, việc phát hiện và khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm (Quảng Nam) mới cho phép khẳng định dấu ấn thời kỳ đồ gốm sứ Việt Nam xuất khẩu thịnh vượng nhất. Số lượng cổ vật thu được trong con tàu trên 240.000 chiếc, chủ yếu là đồ gốm sản xuất tại Chu Đậu (Hải Dương) và Thăng Long (Hà Nội). 
Chúng tôi cho rằng hiện vật gốm sứ trong tàu cổ Cù Lao Chàm đã phản ánh rõ nét sự phát triển mạnh mẽ của các loại đồ gốm xuất khẩu với loại men, kiểu dáng và hoa văn rất phong phú, đặc sắc, đóng góp tích cực vào truyền thống riêng biệt của gốm Việt Nam.
Việc khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm đã mang lại nhiều giá trị khoa học to lớn. Qua sưu tập gốm sứ tàu cổ Cù Lao Chàm với khối lượng tài liệu đồ sộ, bao gồm các dòng men đã đóng góp cho giới nghiên cứu nhiều hiểu biết mới, ngày càng đầy đủ hơn về lịch sử gốm sứ Việt Nam. Dòng gốm phong phú nhất là hoa lam, hoa lam kết hợp với vẽ nhiều màu qua lần nung thứ hai rất đáng được lưu ý. Lần đầu tiên xuất hiện nhiều đồ gốm men, loại vẽ nhiều màu, men trắng mỏng, men ngọc, men lam tím, kết hợp với vẽ vàng kim trên men. 
Tạo hình và trang trí trên đồ gốm Cù Lao Chàm cũng là một cuộc đối thoại với thiên nhiên. Nhiều đề tài trang trí độc đáo và mới lạ, tạo nên một mảng màu sinh động của hàng hóa gốm sứ Việt Nam, đủ tầm vươn xa chiếm lĩnh thị trường trước cường quốc gốm sứ Trung Quốc. 
Các dòng men, sự đa dạng và phong phú về trang trí của đồ gốm sứ Việt Nam trong tàu Cù Lao Chàm sẽ còn tiếp tục nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Hơn thế nữa, những phát hiện này còn khẳng định tuyến đường biển lịch sử nối liền châu Á với châu Âu từ nhiều thế kỷ nay.
Ngoài tàu Cù Lao Chàm, TS Nguyễn Đình Chiến cũng chia sẻ câu chuyện khá thú vị khi chỉ đạo khai quật tàu cổ ở Bình Thuận. Trong một lần khai quật, một chuyên gia người Úc phát hiện được rất nhiều lớp đĩa xếp chồng ở dưới đáy biển và đã định bỏ đi vì không có giá trị về mặt kinh tế, tuy nhiên, ông vẫn yêu cầu thợ lặn vớt hết số đĩa này lên. 
Và khi một thương nhân người Pháp mua lại, ông này đã phân loại và xử lý, phát hiện được một lượng đĩa gốm sứ thời Minh, có thể tận dụng rất tốt làm đồ gia dụng. 
TS Nguyễn Đình Chiến cho biết, vấn đề đặt ra là chúng ta chưa hiểu rõ hết giá trị của gốm. Nhiều khi, chúng ta chỉ coi trọng tính nghệ thuật mà quên đi gốm vốn được làm ra để phục vụ cuộc sống. Nếu không có sự can thiệp của thương nhân người Pháp thì số đồ gốm này đã bị bỏ phí một cách đáng tiếc.  
Và nỗi buồn… “đồ giả” như “cổ”
Sau nhiều năm nghiên cứu về gốm cổ, giám định một vụ buôn bán trái phép ở TP.HCM, ông có gặp một lô hàng đĩa gốm sứ hoa lam. Lô hàng này được làm giả theo chính những mẫu gốm thuộc thời Minh ở tàu cổ Bình Thuận. Điều bất ngờ ở chỗ, theo đánh giá của các nhà chuyên môn thì họ làm giống đến 80-90%. 
Đối với gốm cổ, khi chế tác nghệ nhân đặt lên cát để kê nên các sản phẩm đều có đặc tính là phần đáy dính chặt cát. Tuy nhiên, người làm giả lại chỉ dùng… keo 502 để gắn cát vào. Truy ra thì biết lô hàng này xuất xứ ở một lò gốm ở Bắc Giang, nghệ nhân này đã cất công sang các lò gốm ở Trung Quốc để mang nguyên liệu và học tập kỹ thuật làm gốm tại đó. Từ hoa văn cho đến màu sắc men thì hoàn toàn giống bản gốc tới kinh ngạc.
Ảnh 1. Đĩa men rạn giả cổ

Theo nhận định của TS Nguyễn Đình Chiến, ngay tại Bát Tràng, trung tâm gốm của cả miền Bắc, cũng có những món đồ giả cổ theo phong cách thế kỷ 17 rất tinh xảo. Điều này cho thấy xu thế làm giả cổ ở Việt Nam đang dần trở nên thịnh hành và đạt đến trình độ tương đối cao. Thay vì sản xuất ra một sản phẩm mới, các nghệ nhân lại chú trọng vào việc làm giả cổ vì bỏ ra ít vốn nhưng thu lời cao hơn. 
Từ xưa cho đến nay, không có thời nào là không có sự tồn tại của “ đồ giả “, đây là điều đau đầu nhất cho các làng gốm sứ và các nghệ nhân làm ra chúng. Ai cũng biết để làm ra được gốm sứ chính hãng thì cần có một quá trình dài và cực khổ để tạo ra được những đồ vật gốm sứ vừa chất lượng lại tinh xảo.

Nhưng ngày nay, sự tinh xảo đó lại nhiều khi dễ dàng bị đánh cắp, làm nhái bởi những kẻ không có lương tâm nghề nghiệp. Chúng nhái vô số những đồ gốm bật nhất của nước ta. Nhưng nói gì thì nói, dù cho hàng nhái có nhái được đến đâu thì chất lượng của chúng mãi mãi không bao giờ như đồ gốm thật. Đó là lí do vì sao mua 2 bộ đồ gốm giống nhau như đúc về nhà, nhưng qua thời gian, 1 đồ gốm vẫn còn nguyên vẹn, còn đồ gốm còn lại lại dễ nứt mẻ. 

Thứ Năm, 27 tháng 4, 2017

5 cách đơn giản để giúp bạn phân biệt gốm chính hãng Bát Tràng và gốm giả

“ Vài tháng trước, khi tôi đi tham quan tại làng gốm Bát Tràng và muốn mua đồ gốm tại nơi đây vì tôi tin rằng mua gốm tại ngay làng gốm cổ thế này thì đâu ra sợ hàng giả nữa. Thế mà khi mua về mấy bộ ấm Bát Tràng “ chính hiệu”, về xài được một thời gian ngắn thì phát hiện ra có những vết rạn đen, từ đó tôi vỡ ngỡ ra mới biết rằng mình đã mua nhầm hàng giả? Đã đi đến tận làng gốm sứ cổ để hy vọng rằng sẽ mua được đúng hàng chính hang rồi vậy mà vẫn bị mua nhầm hàng giả thì giờ tôi phải biết đi đâu để mua hàng gốm thật đây?” – Một du khách cho hay

Là một làng gốm cổ của Việt Nam, gốm sứ Bát Tràng phát triển gắn liền với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, thị trường, và của các gốm sứ Trung Quốc nên gốm sứ Bát Tràng cũng có nhiều thay đổi. Sự tương đồng về mẫu mã, màu sắc, hoa văn… là một trong những lý do mà không ít người đã mua phải hàng giả, hàng nhái. Bên cạnh đó, do nhập hàng gốm sứ Trung Quốc với giá thành rất rẻ, nhiều thương nhân vì lợi nhuận trước mắt mà không ngại trộn lẫn các món đồ gốm của Trung Quốc và Bát Tràng bán cùng nhau nhằm đánh lừa mắt người mua.
Qua bài viết này, tôi xin hướng dẫn mọi người cách để nhận biết gốm sứ Bát Tràng thật và đồ gốm giả Trung Quốc
1.      Phân biệt gốm sứ Trung Quốc và Bát Tràng thông qua họa tiết
- Gốm sứ Trung Quốc hay các nơi khác nhập về và gia công lại thường thì các họa tiết, hoa văn được dán đề can, sau đó hấp qua lửa để mực ăn sâu vào men mà hoàn toàn không phải vẽ. Do đó các nét vẽ thường rất đều, giống nhau từ nhỏ đến lớn.

- Đối với gốm sứ Bát Tràng hầu hết được làm thủ công nên các hoa văn, họa tiết đều được vẽ. Nét vẽ có nét thanh, nét đậm không đều và không giống nhau mặc dù rất đẹp.

Như vậy, khi các bạn lựa chọn mua các sản phẩm bán theo bộ như ấm chén, bát, đĩa…  hoàn toàn có thể kiểm tra về họa tiết để tránh mua phải đồ gốm sứ của Trung Quốc.

2. Phân biệt thông qua màu sắc họa tiết

- Màu sắc các họa tiết của Trung Quốc thường sẽ sặc sỡ như đỏ, xanh thẫm, vàng… nên khi xem các đồ này bạn thường bị ấn tượng, thu hút.

Ảnh 1. Với hàng Trung Quốc thì màu sắc có phần lòe loẹt, người sử dụng thường hay bị ấn tượng bởi điều này, các màu thương là đỏ, vàng, hay xanh thẫm

- Gốm sứ Bát Tràng màu sắc thường trang nhã, ít màu ( một đến 2 màu) và các nghệ nhân làm gốm thường sử dụng các màu gần gủi với đời sống hàng ngày như xanh lá, xanh non, đại thanh…
Bên cạnh đó, màu mực trên họa tiết của đồ gốm sứ Trung Quốc do dán nên rất dễ bị mờ, trong khi đồ của Bát Tràng được tráng thêm lớp men bảo vệ bên ngoài nên không bị mờ khi sử dụng.

3. Phân biệt theo độ trong của xương đất

Xét về độ trong của xương đất trong các sản phẩm gốm sứ  Trung Quốc và Bát Tràng thì Trung Quốc hơn hẵn. Các bạn có thể kiểm tra bằng các đưa sản phẩm ra ngoài ánh sáng, Nếu hình ảnh bàn tay của bạn ở phía bên kia của sản phẩm mờ thì đó là gốm sứ Bát Tràng. Ngược lại, nếu hình ảnh bàn tay rõ nét thì bạn nên cân nhắc vì có thể đây chính là đồ của Trung Quốc.
 
Ảnh 2. Độ trong của xương đất trong các sản phẩm gốm sứ Trung Quốc và Bát Tràng thì Trung Quốc hơn hẳn
Mặc dù vậy, hiện nay một số đồ gốm sứ cao cấp của Bát Tràng cũng có nước men khá trong, điều này là một trong những lý do khiến cho sản phẩm gốm sứ khó phân biệt.
Tuy nhiên, khi sử dụng, các bạn có thể thử đồ thật giả qua độ bền của xương đất. Với đồ của Bát Tràng thường rất bền, cứng, chịu nhiệt tốt, do đó bạn có thể đưa vào lò vi sóng được. Nhưng với đồ gốm sứ của Trung Quốc, khi bạn sử dụng rất dễ bị nứt, sứt miệng…

4. Căn cứ vào độ dầy của sản phẩm

Do được làm thủ công nên đồ gốm sứ của Bát Tràng thường dầy hơn, khi cầm trên tay có cảm giác nặng tay và chắc chắn hơn đồ gốm sứ của Trung Quốc.
 
Ảnh 3. Gốm sứ của Bát Tràng thường dày hơn, cầm nặng và chắc tay hơn gốm Trung Quốc
5. Chất lượng sản phẩm gốm sứ

Ngoài ra, màu vẽ của Bát Tràng thường được bao bọc thêm bởi một lớp men bên ngoài nên hoa văn không bị mờ, an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng. Ngược lại, đồ của Trung Quốc dễ bị mờ và bong tróc khi bạn sử dụng lâu ngày thường bị mờ. Bên cạnh đó, trong mực có chứa chì nên ảnh hưởng tới sức khỏe.


Để tránh sự cố ngoài ý muốn đi mua nhầm hàng giả, mong là mọi người hãy đọc kỹ bài viết và mua gốm một cách thận trọng để tránh mất tiền hoang phí. Những cách trên rất là đơn giản và dễ nhận biết đồ gốm giả và thật. Tại vì hiện nay theo như chúng tôi biết được có gần tới 30% các sản phẩm của Trung Quốc có mặt và được bày bán ở làng gốm Bát Tràng, nên mọi người phải cực kỳ cẩn thận.  

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Sự hoành tráng kiến trúc tại công viên đất nung Thanh Hà

Nếu bạn đang đi khám phá Hội An dưới hơi nước của mình, làng gốm Thanh Hà là một điểm dừng chân tốt, đặc biệt là khi nó đang trên đường đến Mỹ Sơn.Vẻ đẹp kỳ thú của khu vườn đất nung. Điểm mốc lớn là Công Viên Đất Nung Thanh HÀ, công viên và trung tâm dành cho đồ gốm mọi thứ. Trong thời trang du lịch Việt Nam thật sự rất thú vị, với khu vườn trước đầy những bản sao đất sét của những kỳ quan kiến trúc của thế giới, mọi thứ từ đền Taj Mahal đến Đấu trường La Mã ở Rôma. Tại sao lại phải đi du lịch thế giới trong khi bạn có thể xem tất cả ở đây!

Vừa qua, Công viên Đất nung Thanh Hà (đóng tại làng gốm Thanh Hà, khối phố 5, phường Thanh Hà, TP.Hội An, Quảng Nam) đã chính thức được khánh thành và mở cửa đón du khách vào tham quan công trình kiến trúc “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam.
Đây không chỉ là công viên đất nung mà trên hết còn là Bảo tàng nghề gốm của Việt Nam với  hàng nghìn sản phẩm gốm, hiện vật gốm, tranh ảnh,… có liên quan đến lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc điêu khắc gốm của Việt Nam.

Ảnh 1. Nghệ thuật điêu khắc tỉ mỉ trên tường tại nơi đây 

Công viên Đất nung Thanh Hà có mức đầu tư trên 22 tỷ đồng, rộng 5.800 m2, đóng ngay trên quê hương làng gốm Thanh Hà 500 năm tuổi. Công viên được thiết kế độc đáo, gồm hai bố cục chính mô phỏng chiếc lò gốm làng Thanh Hà: tòa nhà úp ba tầng dùng để lưu giữ những tác phẩm gốm truyền thống của làng từ xa xưa, tòa nhà ngửa cũng ba tầng để trưng bày và tổ chức các buổi triển lãm các sản phẩm gốm mới, thành lập các chợ thương mại, trong đó mỗi hộ dân sẽ có một lô riêng để giới thiệu sản phẩm do chính gia đình mình sản xuất ra.
Điều đặc biệt là du khách khi đến đây có thể chiêm ngưỡng cách làm gốm, tự tay sáng tạo các sản phẩm từ đất sét.
Công viên Đất nung Thanh Hà được đánh giá là công viên gốm lớn nhất, đồng thời cũng là Bảo tàng gốm “độc” nhất cả nước. Không gian công viên được cấu trúc gồm 9 khu riêng biệt: khu lò gốm, khu Bảo tàng làng nghề, khu sản phẩm làng, khu chợ đất nung, khu thế giới thu  nhỏ, khu vườn sắp đặt, khu trại sản xuất, khu gốm Sa Huỳnh - Chăm, khu các làng nghề truyền thống, và khu triển lãm.
Điểm nhấn của Công viên Đất nung Thanh Hà là khu thế giới thu nhỏ và Bảo tàng làng nghề gốm. Loạt kiệt tác là những công trình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của nhân loại được tái hiện một cách rõ nét và sinh động nơi đây.
Đó là những công trình nghệ thuật như Tháp nghiêng Pissa (Ý), Đền Taj Mahal (Ấn Độ), Nhà hát Sydney (Úc), Nhà trắng – White House (Mỹ), Kim Tự Tháp (Ai Cập), Nhà thờ Đức Bà Paris (Pháp)… hay lạc vào không gian khu vườn gốm đất nung của Việt Nam những thế kỷ trước. Đó là những làng gốm nổi tiếng một thời như gốm Chu Đậu (Đại Việt), gốm Mỹ Nghiệp (Chăm), gốm Thanh Hà (Việt), gốm Sa Huỳnh (Chăm),…
Từ một tình yêu với quê hương
Ý tưởng xây dựng Công viên Đất nung Thanh Hà là của anh Nguyễn Văn Nguyên (Giám đốc Công ty Nhà Việt Corp) nối nghiệp tổ tiên. Niềm đam mê lớn lao với đất sét ngày ấy đã thúc đẩy chàng trai 18 tuổi rời làng vào Sài Gòn học tập tại Trường Đại học Kiến trúc.
Trở thành một kiến trúc sư tài ba đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc Cty Nhà Việt Corp ở TP.HCM, thế nhưng ước muốn bảo tồn nét văn hóa truyền thống cũng như niềm khát khao đưa đồ gốm ở quê nhà đi xa hơn trên thị trường vẫn cháy bỏng trong anh. Anh bắt đầu đưa ra nhiều ý tưởng về việc xây một công viên trưng bày đồ gốm và giới thiệu quảng bá chúng ở nhiều nơi.
Cuối năm 2011, anh đưa ra quyết định táo bạo nhất, bỏ tất cả để trở về làng với quyết tâm “cách tân” đồ gốm.
Song, trước ý tưởng xây dựng một công viên gốm lớn nhất cả nước để trưng bày, giới thiệu các sản phảm do làng Thanh Hà sản xuất của anh  Nguyên đã vấp phải sự phản đối vô cùng kịch liệt từ dân làng, nhất là những bậc trưởng bối có tay nghề lâu năm.
Họ e ngại sự mạo hiểm của anh bởi số tiền đầu tư khá lớn, lại được xây dựng ở một vùng quê nhỏ thì có đủ sức để thu hút sự quan tâm của khách du lịch cũng như các nhà đầu tư?. Khi đó, sản phẩm gốm của làng chỉ có nước “đổ sông, đổ biển”.
Sự mạo hiểm của anh Nguyên cũng không khỏi làm cho gia đình lo lắng. Gặp sự phản đối gần như là hoàn toàn, nhưng anh Nguyên vẫn không nản lòng. Anh đến từng nhà  những nghệ nhân làm gốm lâu năm, cặn kẽ giới thiệu với họ mục đích và lợi ích của việc xây dựng nên công trình này; đồng thời cũng cam kết khi xây dựng xong, nó sẽ là công viên gốm lớn nhất, độc đáo nhất cả nước, tạo điều kiện mở ra hướng đi mới cho các sản phẩm gốm “trăm năm tuổi” này đến các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Theo đó, cuối năm 2011, dự án Công viên Đất nung Thanh Hà được khởi công trên khoảng đất trống của làng có diện tích 5.800 m2. Sau gần bốn năm xây dựng, đến nay công viên đất nung đã đưa vào sử dụng.
Một nghệ nhân gốm Thanh Hà từng phản đối ý tưởng của anh Nguyên, nay đứng ngắm nhìn công trình đồ sộ, tấm tắc: Nhìn dòng người đổ xô về làng để xem công viên gốm,  vui mừng biết dường nào. Giờ làng đã thay đổi hẳn, đồ gốm cũng mang một sức sống mới rồi.

Ảnh 2. Nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng trên Thế Giới được tái hiện tại nơi đây

Làm sao để tới đó
Những tác phẩm mới được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời và sau đó được nung trong lò sấy gỗ. Họ chỉ thắp sáng lò mỗi tháng một lần nên hãy tự coi mình là may mắn nếu bạn ở đó vào một ngày nọ.

Làng gốm Thanh Hà nằm cách thành phố 3 km về phía Tây. Cách trực tiếp nhất là hướng về phía tây đường Trần Hưng Đạo. Khi nó kết thúc, veer ngay trên đường Hùng Vương. Các con đường nhánh sau ba cây số. Đi qua ngã ba của Đà Nẵng và Mỹ Sơn; Ngã ba bên trái dọc theo nước đi đến làng gốm. Con đường đẹp và dễ chịu hơn là đi về phía tây đường Nguyễn Du, một đường hẹp cho xe đạp và xe máy chạy dọc theo sông. Nó kết nối với đường Hùng Vương vào cuối.

Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2017

Một ngày dừng chân tại làng gốm Phù Lãng tỉnh Bắc Ninh

Nằm cách Hà Nội 60 km, làng gốm Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, là một trong những trung tâm gốm cổ nhất của đồng bằng sông Hồng. Làng được biết đến nhiều nhất với các sản phẩm gốm độc đáo được làm bằng các kỹ thuật truyền thống.

Nằm trên sông Cầu, ngôi làng gốm của Phú Lãng vẫn giữ được vẻ đẹp đơn giản và bầu không khí yên bình của năm xưa với những làn đường ngoằn ngoèo, những bức tường gạch đỏ, và những cảnh không thay đổi của nông thôn Việt Nam. Bình và lọ theo đường làng vì gần như mọi gia đình trong làng làm gốm.
Làng nghề gốm Phù Lãng đã tồn tại từ lâu đời. Theo sách Kinh Bắc thì ông tổ của nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú, ông đã học được nghề gốm trong chuyến đi sứ bên Trung Quốc và về truyền dạy cho người trong nước, nghề gốm bắt đầu có ở Phù Lãng từ thế kỷ thứ 13.
Phù Lãng dễ nhận ra bởi những nét riêng biệt điển hình của một làng gốm. Những ngôi nhà gạch trần, mái ngói nhấp nhô dọc hai bên con đường làng đổ bêtông quanh co, lắt léo. Sản phẩm của nghề gốm được xếp đầy sân nhà, bờ ruộng, dọc các lối đi.

Ảnh 1. Khách du lịch đến tham quan có thể trang trí họa tiết cho gốm

Nếu gốm Thổ Hà lấy chất liệu từ đất sét xanh, Bát Tràng là sét trắng, thì gốm Phù Lãng lại được tạo nên từ đất đỏ hồng lấy từ vùng Thống Vát, Cung Khiêm (Bắc Giang). Sản phẩm Gốm Phù Lãng gồm 3 loại hình:
- Gốm dùng trong tín ngưỡng như tượng Phật, lư hương và các đồ thờ cúng…
- Gốm gia dụng : dòng sản phẩm này bạn có thể bắt gặp rất nhiều trên đường vào làng Phù Lãng. Gốm gia dụng rất phong phú và đa dạng, bao gồm những sản phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày của người dân như lọ, bình, ang, chum, vại, ống điếu, bình vôi…
- Gốm trang trí: lọ cắm hoa, bình trang trí, tranh gốm với những hình ảnh phong cảnh và sinh hoạt đặc trưng của làng quê Việt, ngoài ra còn các tạo hình khác như người, vật, nhà cửa…
Nào tiểu quách xếp hàng tầng tầng lớp lớp, nào ống nước tròn vo chất cao ngất bên tường, nào chậu cảnh, bình gốm, chum vại…, cái còn ướt đỏ màu đất, cái đã phơi màu bạc phếch, cái đã qua lò nung lên nước bóng loáng…
Mỗi góc vườn, mỗi con đường, mỗi bờ rào là một khuôn hình dễ thương, mộc mạc. Nó như gìn giữ trong lòng cả một câu chuyện dài về quá khứ của xứ sở Kinh Bắc hôm qua, và ẩn mình trong cái hồn của làng gốm Phù Lãng hôm nay.

Tuy gần vùng đất than Quảng Ninh nhưng ở Phù Lãng người ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống - dùng củi để nung gốm, nhờ sự biến nhiệt khác nhau tạo ra những vết táp trên bề mặt gốm mà không phương pháp nào có thể thay thế. Xương đất sét có màu hồng nhạt, khi nung ở nhiệt độ cao, xương gốm chuyển màu gan gà, với hai màu men chủ đạo là nâu vàng và nâu đen (thường gọi là men da lươn). Nếu vẻ đẹp của gốm Bát Tràng là sự đa dạng về nước men, nét vẽ tinh tế, thì hồn cốt của gốm Phù Lãng được tạo nên từ sự dân dã, mộc mạc của nước men da lươn này.

Ảnh 2. Làng gốm nằm cạnh bờ sông

Người làm gốm ở Phù Lãng còn rất mộc mạc và thân thiện. Vốn là một địa điểm tham quan và chụp ảnh khá lý tưởng cho các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và không chuyên đến từ Hà Nội, Phù Lãng đã quá quen với những đoàn người tay máy, tay ống lang thang trong làng từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều.
Ai cũng hăm hở, len lỏi giữa hằng hà sa số sản phẩm gốm, những ngóc ngách rêu phong, những bức tường được dựng lên từ những tiểu sành vỡ, hỏng, những đống củi xếp hàng như ma trận khắp làng.
Người làm gốm ở Phù Lãng không ngại tiếp chuyện khách phương xa, sẵn sàng trả lời tỉ mỉ những công đoạn làm nghề, tay làm miệng nói, những giọt mồ hôi rơi giữa trưa hè nắng gắt, nhưng không phải vì thế mà họ không mỉm cười…

Ngày nay, đồ gốm Phù Lãng nổi tiếng ở Việt Nam và nước ngoài. Gốm sứ được xuất khẩu với số lượng lớn đến thị trường Nhật Bản, Canada, Ý và Hàn Quốc. Nghề này đã cải thiện mức sống của người dân. Ở Phù Lãng, việc truyền nghề cho các thế hệ tương lai là một mối quan tâm đang diễn ra và nhiều thợ thủ công đã đưa con mình đến các trường mỹ thuật để học, bảo vệ và phát triển nghề thủ công. Phạm Văn Hoàng đã 24 tuổi. Ông đã thực hành nghề này gần 11 năm. Ông Hoàng tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội: "Tôi sinh ra và lớn lên ở Phù Lãng, tôi say mê nghề thủ công truyền thống, chắc chắn chúng tôi có thể kiếm sống bằng nghề này. Tôi đang cố gắng để bảo vệ nghệ thuật này. "
Hiện nay, Phù Lãng là điểm thu hút khách du lịch phổ biến, thu hút cả du khách Việt Nam và nước ngoài. Họ đến để khám phá ngôi làng và đồ gốm của nó. Đến Phú Lãng và tự làm một sản phẩm của riêng mình để tặng cho người bạn yêu như một món quà lưu niệm. Thợ gốm Phù Lãng luôn ở đó để chào đón bạn.

Sự quyết tâm với nghề gốm và những nỗi lo khó khăn với nghề tại Bàu Trúc

Ông Thọ - một người tại làng Bàu Trúc chia sẻ: "Không có hai sản phẩm gốm nào của Bầu Trúc, dù lớn hay nhỏ, đều giống hệt nhau, mặc dù người thợ gốm cố gắng làm cho chúng trông giống nhau và được nướng ở cùng một nơi theo cùng một cách".
Ông Đặng Chí Quyết cho biết: "Bàu Trúc có 479 hộ gia đình và có tới 180 hộ sản xuất đồ gốm ở trong nước. Hơn 600 người đang làm việc và khoảng 90% số hộ gia đình làm việc trong làng. ".
Ấy thế mà công việc nào cũng có những rủi ro của nó, tưởng chừng như mọi việc suôn sẻ nhưng càng lúc càng xuất hiện cạnh tranh về giá, về chất lượng sản phẩm, cũng như đối mặt với nguy cơ hàng ngoại nhập. Giờ đây người dân trong làng đang đứng trước nguy cơ bị mai một

Ảnh 1. Các sản phẩm gốm nơi đây do những nghệ nhân luôn tận tụy làm ra chúng

Trước đây ở làng gốm truyền thống Bàu Trúc, nhà nhà đều nhộn nhịp với nghề làm gốm. Với bao công phu để nhào nặn tạo ra sản phẩm, với tâm huyết và lòng đam mê sáng tạo những chiếc lu, cái chậu, lò đun, ấm đất, tượng phù điêu được các nghệ nhân làm ra luôn mang đầy hơi thở cuộc sống, được mọi người biết đến. Từ đó làng nghề dần đổi thay và có bước phát triển. Cũng như bao làng nghề truyền thống khác, giờ làng gốm truyền thống Bàu Trúc cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách bởi “thiếu vốn đầu tư, yếu sức tiêu thụ”; nhiều nghệ nhân trước đây giờ tuổi cũng đã xế chiều, trong khi lao động trẻ có tay nghề lại chẳng mấy mặn mà, tâm huyết với nghề gốm. 

Nói về khó khăn của làng gốm hiện nay, rất nhiều cơ sở, nghệ nhân làng gốm đều than thở vì không có vốn để đầu tư sản xuất. Để làm gốm thì phải cần nguyên liệu đất sét, cát, thế nhưng nguyên liệu ngày càng khan hiếm, giá cả lại đắt đỏ, trong khi sản phẩm làm ra chủ yếu là dùng để phục vụ đời sống hàng ngày, chỉ có giá 10.000 đồng/cái như lu, chậu, nồi đất, lò đất... Vất vả hơn, đây là những sản phẩm dễ vỡ nên vận chuyển đi các nơi xa rất khó khăn. 

Nghệ nhân Hà Mên (56 tuổi), ở Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân bày tỏ: Tôi có thâm niên hơn 30 năm làm nghề gốm nhưng chưa bao giờ thấy làng gốm, nghề gốm truyền thống lại gặp khó như hiện nay. Trước đây chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện vay 10 triệu đồng/hộ/năm để sản xuất gốm, nhưng nay vay phải thế chấp trong khi bà con không có tài sản gì lớn thế chấp nên không được vay. Để làm ra 500 cái lò đất nấu than thì cần một 1 m3 đất sét và 1 m3 cát, giờ đất sét có giá đến 300.000 đồng/m3, cát 250.000 đồng/m3, trong khi sản phẩm làm ra chỉ có giá 10.000 đồng/cái. Tính bán hết cũng được 5 triệu đồng nhưng nếu trừ chi phí như thuê công lao động, tiền mua nguyên liệu làm gốm, nguyên liệu đốt lộ thiên…cũng chỉ được dưới 1 triệu đồng. 

Là nghệ nhân trẻ đầy tâm huyết với nghề gốm truyền thống của đồng bào, anh Vạn Quan Phú Đoan lúc nào cũng khá trăn trở với nghề. Anh Đoan thổ lộ: Hồi năm 2014, chính quyền địa phương hỗ trợ đầu tư cho làng xây 2 lò nung gốm, nhưng lò nung này không phù hợp để nung sản phẩm tạo ra màu sắc truyền thống. Thấy vậy ai nấy cũng bỏ và chuyển sang nung lộ thiên bằng cách đốt nguyên liệu rơm rạ, củi, trấu… 

Dù nung lộ thiên làm cho sản phẩm có màu sắc đẹp nhưng lại gây ô nhiễm môi trường. Khó khăn hơn nữa là do người dân làm tự phát, tạo ra sản phẩm rất bình thường nên không hút được thị trường. Các cơ sở làm gốm không có sự liên kết để tạo ra sản phẩm pha truyền thống lẫn hiện đại, đảm bảo chất lượng, mẫu mã đẹp. Do đó nghề gốm truyền thống rất khó đứng vững trước sự khắt khe của thị trường hiện nay. 

Ông Võ Viết Hiếu, Giám đốc Trung tâm khuyến công và Xúc tiến thương mại, Sở Công thương tỉnh Ninh Thuận cho biết, để bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề, năm 2014, UBND tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như điện chiếu sáng, đường giao thông, lò nung gốm, nhà trưng bày sản phẩm khang trang… 

Ảnh 2. Hình ảnh gốm với họa tiết độc lạ nơi đây
Đồng thời Trung tâm khuyến công cùng địa phương thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao tay nghề để sản phẩm gốm làm ra thực sự phong phú về chủng loại, đa dạng mẫu mạ, thu hút được thị hiếu thị trường. Thế nhưng do nhiều khó khăn khách quan nên làng nghề không phát triển như kỳ vọng. 

Theo UBND huyện Ninh Phước, làng nghề truyền thống gốm Bàu Trúc là niềm tự hào của đồng bào Chăm nơi đây nói riêng và của người dân trong toàn huyện nói chung. Làng nghề cũng có 1 hợp tác xã, 4 công ty trách nhiệm hữu hạn và 9 cơ sở sản xuất gốm. Tuy nhiên do nhiều khó khăn nên tất cả những con số này đều đã giảm so với trước. Nếu như cách đây khoảng 3 năm, cả làng có hơn 550 hộ đều làm gốm truyền thống thì nay con số này chỉ còn vỏn vẹn 150 hộ. 

Ngoài ra, theo ông Quyết, những gì mới trong làng là các chàng trai đã cuộn tay áo của họ và làm việc với đất sét để tạo ra sản phẩm chứ không chỉ để nó cho các cô gái, giống như trong quá khứ.
Một số nhà xưởng gốm ở Bầu Trúc đã nghĩ đến việc làm các đồ gốm gia đình một lần nữa. 'Nơi của tôi đã được thực hiện một số [hộ gia đình]. Họ bán khá tốt, vì vậy tôi tin rằng nhiều người sẽ làm các đồ gốm gia đình vì nó có lợi cho sức khoẻ và môi trường, "ông Kiều Lan, chủ một xưởng sản xuất, nói. Trong tương lai, mọi người ai cũng tin rằng làng gốm bàu Trúc sẽ vẫn tiếp tục đứng lên và trở nên mạnh mẽ như bất cứ khi nào vì đây là nghề mà được truyền từ đời này sang đời khác, một nét đặc trưng của làng và người dân nơi đây


Nét đặc trưng hiếm có tại làng gốm Đông Triều - thị trấn Mao Khê

Gốm tại làng Mao Khê( còn được gọi là gốm sứ Đông Triều) đã phát triển gần đây hơn so với các làng gốm truyền thống khác ở Việt Nam với tư cách là thợ bậc thầy đầu tiên, ông Hoàng Bá Huy, bắt đầu hội thảo sản xuất gia đình vào năm 1955. Vài năm sau đó, năm 1958 ông thành lập Công ty Gốm sứ Đông Thành Tại làng Cầu Đất với một số hội thảo sản xuất gia đình khác. Đến cuối năm 1960, ông đã thành lập một hợp tác xã khác là Gạch Ngói Ánh Hồng tại thôn Vĩnh Hồng, thị trấn Mạo Khê.

Ảnh 1. các sản phẩm gốm tại làng Mao Khê - Đông Triều

Ở Mạo Khê hiện nay có 2 cơ sở sản xuất gốm sứ nổi tiếng nhất, đó là Công ty cổ phần Thái Sơn 88 và Công ty cổ phần Quang Vinh. Hai cơ sở này cung cấp hàng trăm nghìn sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ ở trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài.
Mạo Khê giờ đây nổi tiếng với nghề gốm sứ, nhưng sẽ còn nổi tiếng hơn với tư duy làm ăn, bởi họ đã vượt qua mặc cảm của chính mình để vươn ra khỏi “lũy tre” vốn còn tồn tại ở rất nhiều làng nghề trong cả nước. Việc tập trung hình thành các cơ sở mạnh đã cho thấy những bước đi vững chắc của một làng nghề truyền thống.

Những người dân có nghề làm gốm sứ nhưng không có vốn liên kết lại với nhau để tư duy, sản xuất ra những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Trước đây, nghề gốm ở Mạo Khê hình thành chủ yếu là sản xuất các sản phẩm mang tính chất gia dụng như dùng để chứa đựng, và sử dụng trong cuộc sống hằng ngày, chỉ có một số ít là để ngắm.

Nhưng bây giờ, cách làm ăn đó đã xoay ngược lại, họ xác định cần phải làm ra những sản phẩm đẹp, ấn tượng thì mới có giá trị kinh tế cao. Nói là làm, những người dân Mạo Khê cùng với các doanh nghiệp lớn tại đây đã cho ra đời những sản phẩm gốm sứ chủ yếu mang tính chất trang trí.
Ấn tượng nhất khi chúng tôi đến Mạo Khê là cách làm gốm sứ ở đây luôn được thay đổi theo thị hiếu của thị trường.
Đấy là lý do vì sao khi đến Mạo Khê, khách như lạc vào thế giới của gốm sứ. Hầu như không sản phẩm nào giống sản phẩm nào. Trong hàng nghìn sản phẩm được trưng bày, mỗi sản phẩm có một nét khác biệt, tùy theo từng đối tượng khách hàng mà họ đưa sản phẩm ra.

Ảnh 2. Nghệ nhân làm gốm tại làng gốm Mao Khê 

Nguyên liệu chính là loại đất sét trắng mềm từ làng Trúc Thôn và cao lanh chịu lửa khai thác ở thôn Tú Lạng, tỉnh Hải Dương. Để bắt kịp với hàng trăm năm tuổi biết làm thế nào, các nghệ nhân đã dành rất nhiều thời gian và công sức để tìm ra những phương pháp chuẩn bị vật liệu và cấu trúc lò nung hiệu quả nhất. Nhờ nghiên cứu sâu rộng và do nhiệt độ đốt cao nên gốm Đông Triều đảm bảo độ bền cao cũng như độ tinh khiết của men

Các cơ sở sản xuất gốm tại Mạo Khê đã tự biến vùng đất cha ông trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Trên trục đường 18, hầu như các đoàn xe chở khách mỗi lần ghé qua Mạo Khê đều chọn nơi đây là điểm dừng chân và các điểm sản xuất gốm sứ là nơi thu hút đông đảo du khách nhất. Có thể trong những đoàn khách, có những người không mua sản phẩm gốm do chưa có nhu cầu, nhưng khi trở về, chắc chắn một điều, họ sẽ nhớ đến vùng đất Mạo Khê có các cơ sở sản xuất gốm sứ với những sản phẩm có chất lượng. Và một ngày nào đó, họ sẽ quay trở lại vùng đất này. Đó là điều mà những doanh nghiệp ở đây mong muốn và họ cho rằng, sự bền vững phải bắt đầu từ sản phẩm.

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Các Công Đoạn Trong Sản Xuất Gốm Sứ


Gốm là đất sét được làm mẫu, làm khô, và được đốt cháy, thường là men hoặc hoàn thiện, vào trong một chiếc tàu hoặc đồ trang trí. Đất sét là một sản phẩm tự nhiên được đào từ trái đất, đã bị phân hủy từ đá trong vỏ trái đất hàng triệu năm. Sự phân huỷ xảy ra khi nước làm xói mòn đá, phá vỡ nó và đưa chúng vào. Điều quan trọng cần lưu ý là một cơ thể đất sét không giống như đất sét. Đất sét được sét pha trộn với các chất phụ gia cho đất sét các tính chất khác nhau khi làm việc và bắn. Do đó đồ gốm không được làm từ đất sét thô mà là một hỗn hợp đất sét và các vật liệu khác.

Dưới đây chúng ta cùng tìm hiểu quá trình làm gốm sứ

Khâu làm đất: đây là bước quan trọng nhất để cho ra đời những mẫu gốm sứ tuyệt vời và đây cũng là bước xác định độ chất lượng của đồ gốm. Chúng ta tốt nhất nên chọn đất sét hoặc đất cao lanh. Đối với đất sét chúng ta phải mài chúng ra cho thật mỏng vì đất sét thường rất cứng, sau đó dùng máy nhào nặn thật kỷ để đất sét có độ mềm nhất định.

Tạo hình gốm sứ: đây là khâu quan trọng đặc biệt quyết định hình dáng riêng của gốm sứ. Từ đất sét đã xử lý, nghệ nhân gốm có thể tạo hình bằng phương pháp vuốt tay, be chạch trên bàn xoay hoặc bằng khuôn in. Sau đó gốm sẽ được phơi sao cho khô đều, không bị nứt nẻ hoặc thay đổi hình dáng sản phẩm khi vừa tạo hình xong.

Ảnh 1. Quá trình tạo hình gốm sứ rất quan trọng vì nó sẽ quyết định hình ảnh của gốm

Trang trí hoa văn: Sau khi gốm được phơi khô sẽ được vẽ bằng bút lông vẽ màu để trang trí các loại hoa văn để tăng tính nghệ thuật cho sản phẩm. Các nghệ nhân cũng có thể sử dúng các lối trang trí hoa văn khác như đánh chỉ hoặc bôi men chảy để tạo nên các đường nét tự nhiên hài hòa.

Tráng men: Sau khi sản phẩm đã được trang trí xong, người ta sẽ nung sơ với nhiệt độ không cao rồi tráng men sau hoặc có thể nhúng men không cần nung trước. Người ta sẽ dội men hoặc phun men đối với các sản phẩm có kích cỡ lớn, với các sản phẩm nhỏ hơn người ta có thể dùng phương pháp nhúng men.

Nung: Người ta có thể sử dụng các loại lò ếch, lò đàn, lò bầu hoặc lò hộp với nhiên liệu là củi, than cám hoặc ga để nung gốm. Mỗi dạng gốm, mỗi dạng lò gốm yêu cầu nhiệt độ nung khác nhau. Thường gốm được nung từ 600-1350 độ C. Cụ thể, gốm đất nung ở khoảng 600-900 độ C, gốm sành nâu từ 1100-1200 độ C, gốm sành xốp từ 1200-1250 độ C, gốm sành trắng khoảng 1250-1280 độ C và đồ sứ từ 1280-1350 độ C.

 Ảnh 2. Quá trình làm gốm sứ ở các làng gốm Việt 


Sau khi qua các công đoạn làm gốm, những món đồ gốm cho ra vô cùng tinh xảo và đẹp mắt.Tùy mỗi vùng mà cho ra đời mỗi loại đồ gốm khác nhau, mỗi hoa văn, chất liệu, chất lượng sản phẩm khác nhau. Sự khác nhau đó đến từ những sự khéo léo tài hoa của mỗi người nghệ nhân, nguyên vật liệu làm gốm, kỹ thuật làm gố, những đồ công cụ hiện đại phục vụ trong quá trình làm gốm v.v… Mỗi một loại đồ gốm được làm ra là biết bao nhiêu những công sức tận đáy lòng của mỗi nghệ nhân.

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

Nghệ thuật truyền thống gốm Hương Canh với những khó khăn ngày nay

 Câu chuyện về gốm Hương Canh đã để lại bao nhiêu nỗi bồi hồi trong lòng mỗi người. Một làng gốm đã có từ xa xưa với cái truyền thống làm gốm được truyền từ đời này sang đời nọ, lần lượt nối tiếp nhau để giữ gìn cái nét văn hóa truyền thống cao đẹp này. Đã từng có thời gian gốm Hương Canh nổi lên, phát triển vượt bậc và được biến đến như một thương hiệu gốm tinh xảo nổi bậc bậc nhất Việt Nam ta. Nhưng đáng tiếc thay, ngành nghề nào rồi cũng đến hồi xuống dốc, bởi vì sự khắc khổ phải đương đầu với sự canh tranh gốm từ những doanh nghiệp ngước ngoài. Giờ đây, gốm Hương Canh đang phải chịu những thách thức trước hàng ngoại và nỗi lo bị mai một nghề gốm.

Nặng lòng với gốm Hương Canh
Tìm đến ngôi làng nổi tiếng với nghề truyền thống hơn 300 năm ở trị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) trong một buổi chiều cuối xuân, có phải do những cơn mưa giao mùa, khiến thời tiết ảm đạm làm cho không khí trong làng cũng trầm lắng? Còn đâu sự nhộn nhịp, hối hả chỉ vài năm trước. Cả làng chỉ còn vài nhà giữ nghề, lác đác dăm cửa hàng giới thiệu sản phẩm với những mẫu mã không lấy gì làm đặc sắc, nếu không muốn nói là đi đâu cũng có thể bắt gặp. Gốm Hương Canh nức tiếng một thời giờ cũng vắng bóng dần trên thị trường. Những gia đình gắn bó với nghề vẫn canh cánh nỗi lo mai một nghề truyền thống.

Bảo tồn nghề truyền thống

Mấy trăm năm trước, Đàng Ngoài nổi tiếng với 3 làng gốm truyền thống: Bát Tràng (Gia Lâm – Hà Nội) Thổ Hà (Việt Yên – Bắc Giang), và Hương Canh. Nếu như gốm Bát Tràng đa dạng hơn và nhất là từ khi đổi mới đã cập nhật nhiều mẫu mã, theo kịp thị hiếu nên vẫn còn có chỗ đứng trên thị trường, thì gốm Thổ Hà và gốm Hương Canh (đều chuyên về làm vại chĩnh, chậu, lọ, tiểu sành…) lại đang dần chỉ còn lại cái tên xưa cũ.
Những câu truyền tụng như: “Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện/ Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia/ Chĩnh chum thời có Thổ Hà…” hay “Sứ Móng Cái, vại Hương Canh” chỉ còn trong dĩ vãng, phản ánh rõ nét qua sự đìu hiu của làng nghề bây giờ.

Ảnh 1. Một góc tại gốm Hương Canh rất sơ sài và cũ kỹ

Theo sự chỉ dẫn của người dân, len lỏi trong những con ngõ nhỏ, ngoằn nghèo, chúng tôi đến nhà nghệ nhân Bùi Thị Nụ, trú tại thôn Lò Cang, thị trấn Hương Canh - một trong không nhiều gia đình vẫn giữ được nghề truyền thống ở làng nghề hiện nay.
Trong không gian nhỏ hẹp chất đầy những sản phẩm đang chờ khách hàng đến lấy, ông Lê Thanh Tuấn, 55 tuổi (con trai bà Nụ), tự hào cho biết: “Làng gốm Hương Canh cho đến nay đã hơn 300 tuổi. Gốm Hương Canh nổi tiếng trên thị trường là do sự ưu ái của thiên nhiên. Nằm giữa nơi tiếp giáp trung du và đồng bằng nên đất sét Hương Canh dẻo và có nhiều màu sắc: Xám, vàng, đỏ, nâu… rất thích hợp cho nghề làm gốm.
Các sản phẩm gốm ở đây chủ yếu là gốm mộc như: Chum, vại, nồi niêu, ấm chén… được nung chủ yếu bằng lò thủ công nên chất lượng sản phẩm tốt, có độ bền cao, chống được nước thẩm thấu, ngăn được ánh sáng, giữ được bền hương vị nguyên chất của những thứ đựng bên trong; do vậy đựng rượu mà không giảm nồng độ, đựng hạt giống khô không bị ẩm mốc, pha trà không bị mất hương vị…”.

Tính đến đời ông Tuấn, gia đình nghệ nhân Bùi Thị Nụ đã giữ nghề đến nay là 5 đời. Bản thân nghệ nhân Bùi Thị Nụ đã được trao danh hiệu “thợ giỏi Vĩnh Phúc” cách đây ít năm. Bà Lê Thị Vụ (con gái bà Nụ) chia sẻ: Làm gốm đến nay vẫn là nghề chính, mang lại đến 90% thu nhập cho gia đình, bởi sản phẩm làm ra trung thành với chất lượng truyền thống, được đặt mua khắp cả nước. Tuy nhiên, cũng theo bà Vụ, hiện không còn nhiều gia đình ở Hương Canh còn trông chờ phần lớn vào nghề cha truyền như vậy nữa.

Nỗi lo mai một nghề truyền thống

Thấy chúng tôi chăm chú nhìn những sản phẩm gốm vừa ra lò, ông Tuấn thở dài, tâm sự: “Cái nghề này không biết còn được lưu truyền bao lâu nữa. Vì gặp nhiều khó khăn mà nhiều hộ gia đình đã dừng làm. Trong làng có 178 hộ nhưng đến giờ chỉ còn lại 3, 4 hộ là còn theo nghề”.
Nói là tới 90% thu nhập của gia đình trông chờ vào nghề gốm, nhưng thực tế, thu nhập đó cũng chẳng đáng là bao, khi ông Tuấn chia sẻ mỗi tháng cả gia đình chỉ thu được 4 - 5 triệu đồng, nếu chia đầu người (chỉ những thành viên tham gia lao động trực tiếp) thì mỗi một người trên một tháng mới thu được 1 triệu. Ông Tuấn cũng tiết lộ, hiện nay gia đình ông cũng chỉ là cố giữ nghề truyền thống chứ đang phải tìm hướng làm ăn lâu dài khác.
Ảnh 2. Nghề làm gốm này đã được truyền qua biết bao thế hệ tại làng gốm này

“Còn cố được thì còn phải giữ lấy nghề. Hiện ở Hương Canh này, nhà nào còn làm nghề thì đều đang lo tìm hướng khác hoặc đã có nguồn thu khác phụ trợ rồi. Chưa kể mọi nhà đều chỉ giữ được quy trình sản xuất chứ không giữ được bản sắc riêng của gốm Hương Canh, vì đất nguyên liệu địa phương đã hết, phải lấy từ nơi khác về sản xuất, chất lượng thua xa với loại đất sét đặc trưng làm nên tên tuổi gốm Hương Canh trước đây” - ông Tuấn cho biết.

Được biết trước đây, người dân có thể khai thác ngay đất trong làng hay ở địa phương lân cận. Nhưng những năm gần đây, do địa bàn dân sinh sống tăng, xây dựng công ty nhiều khiến cho địa bàn lấy nguyên liệu và địa bàn sản xuất bị thu hẹp đã gây ra không ít khó khăn cho người làm gốm. Do nhu cầu thị trường thất thường nên số sản phẩm đặc trưng của làng nghề như chum, vại, chĩnh, sành… ngày càng ít nhu cầu. Những khó khăn đó cộng dồn lại khiến ngày càng nhiều gia đình chán nản và bỏ nghề.
Vừa nhào đất sét chuẩn bị cho những sản phẩm mới, ông Tuấn vừa giãi bày: “Do đặc trưng của nghề đòi hỏi người làm phải có chuyên môn cao và cần sự tỉ mỉ. Điều này đối với thanh niên trẻ gần như là rất khó khăn. Con trai tôi vì đam mê cũng đã từng thử sức làm để sau này nối nghiệp cha, nhưng được một thời gian ngắn nó từ bỏ vì nhiều vất vả, khó khăn mà đồng tiền thu được không đủ để trang trải cuộc sống gia đình. Nghề này chắc chỉ đến đời vợ chồng tôi là dừng lại”.

Nghe những câu chuyện được giãi bày ở những nghệ nhân gốm tại nơi đây mà lòng đầy thương cảm, họ lo lắng về vấn đề tài chính và nỗi lo sợ bị mai một nghề, không còn thể phát triển được với nghề. Nên mặc dù có rất nhiều người yêu thích cái nghề gốm này, nhưng rồi do thời đại mới phát triển cũng đi cùng với nỗi lo của những người nơi đây. Có nhiều nghệ nhân vì không đủ vốn liếng để làm, bán ra thì ế ẩm không còn nhộn nhịp như trước nữa, nên nhiều người cũng thành ra chán nản. Có những thanh niên trong làng cũng yêu thích nghề gốm, muốn được nối nghiệp gia đình nhưng vì tình hình kinh tế khó khăn nên thôi cũng đành ngậm ngùi từ bỏ…

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

KHÓ KHĂN TRONG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ GỐM SỨ

Hiện nay trong tình trạng Việt Nam bắt đầu hội nhập với nền kinh tế Thế Giới, những nhà làm gốm Việt hiện đang phải đối đầu trước những nguy cơ khủng hoảng cho nghề gốm Việt Nam. Sản phẩm đã không còn chất lượng như trước? Hay việc thiếu cơ sở vật chất và những đồ dùng hiện đại để phục vụ cho việc làm gốm? Thiếu những chuyên gia làm gốm có tay nghề cao, thiếu nguồn nhân lực, bị ép giá v.v…Tất cả đều là những khó khăn trước mắt mà các doanh nghiệp làm gốm phải đối đầu trong giai đoạn thất thủ này.
Đã qua thời hoàng kim
Đến với làng nghề Bát Tràng, khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy nhiều sản phẩm gốm gia dụng, vật dụng bình dân, hàng giả cổ, tranh gốm, sơn mài hay những sản phẩm thủ công mỹ nghệ trang trí cao cấp… do tư nhân hoặc DN sản xuất.
Ảnh 1. Gốm Hương Canh với nỗi lo mai một nghề làm gốm
Hầu hết các sản phẩm này đều có mẫu mã giống nhau, chất lượng kém, thiếu những sản phẩm trau chuốt, truyền thống, tinh hoa vốn có tiếng từ lâu của làng nghề này. Gốm Bát Tràng đang xa dần thời hoàng kim của mình - thời mà bất cứ sản phẩm gốm nào được khai sinh dưới cái tên Bát Tràng cũng luôn được người tiêu dùng đón nhận.
Theo bà Vũ Thị Cẩm Tú - Giám đốc Công ty TNHH Gốm sứ An Đô, Bát Tràng, hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và ở lànggốm Bát Tràng nói riêng đang rơi vào tình trạng rất khó khăn. Hiện nhiều DN ngành này đang phải chịu cảnh sản phẩm sản xuất ra hàng loạt, mẫu mã kém phong phú, trong khi lượng khách đến mua lại giảm dần.
Ảnh 2. Khó khăn về vấn đề mặt bằng sản xuất gốm tại làng gốm Mỹ Lộc
Đây cũng là thực trạng chung của các làng nghề sản xuất gốm truyền thống khi mà các nhà sản xuất vẫn loay hoay trong việc tìm kiếm các sản phẩm thế mạnh để tạo sức cạnh tranh và thương hiệu cho mình.
Thua ngay trên sân nhà
Nhận định về ngành sản xuất gốm Việt Nam, bà Jottede Koning, Trường Đại học Công nghệ Delft (HàLan)cho rằng, nghề gốm của Việt Nam gồm những công ty vừa và nhỏ ở các làng nghề đang phát triển theo xu hướng phân hóa, phát triển chậm. Các hộ gia đình đang gặp nhiều khó khăn và đang dần dần tự loại mình ra khỏi cuộc chơi. Chỉ còn lại một số hộ tiếp tục nghề của cha ông, nhưng họ lại đi theo những dòng sản phẩm thiếu vắng những giá trị, kỹ năng truyền thống của làng nghề.
Trao đổi về nguyên nhân của thực trạng trên, Giám đốc Công ty TNHH Gốm sứ An Đô, bà Vũ Thị Cẩm Tú cho biết: Nguyên nhân thứ nhất là "cầu" của thị trường đang bị giảm sút. Thứ hai là về vấn đề giá cả cạnh tranh và công nghệ sản xuất: Nguồn nguyên liệu không ổn định, giá nhân công cao…Đặc biệt, nhân công làm việc thủ công như vẽ tay thì hiện giờ phải trả đến 1 triệu đồng/ngày. Chính vì vậy, sản phẩm kém cạnh tranh về mẫu mã và giá thành.
Đặc thù của Việt Nam là nguồn nguyên liệu ít, bản thân các DN nhỏ và vừa cũng không thể tiếp cận được những nguyên liệu tốt nhất, ông Nguyễn Hồng Long, Điều phối viên khu vực dự án đổi mới sản phẩm bền vững của EU cho biết.
Ảnh 3. làng gốm mỹ nghệ Biên Hòa phải đối mặt với nhiều khó khăn

Đa số nhà sản xuất gốm hiện nay đều đang sản xuất dựa vào sức người và kinh nghiệm gia truyền với những kỹ thuật thủ công đã có từ hàng chục năm nay. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt lao động có tay nghề cao và lao động trẻ. Đặc biệt, với những công đoạn như tạo hình, vẽ họa tiết, làm men, lò đốt thì thường là bí quyết nhà nào nhà ấy giữ, không chia sẻ để tạo ra những sản phẩm hoàn thiện hơn. Điều này dẫn đến một thực tế là tỷ lệ sản phẩm hỏng nhiều, gây lãng phí lớn về kinh tế…
Nguyên nhân vì sao các làng gốm tại Việt Nam dần đang tuột dốc có lẽ bởi do người Việt ngày càng mê hàng “Ngoại”. Chúng ta có thể dễ dàng tìm kiếm được các sản phẩm của những nước như Nhật, hay Trung Quốc được nhập về và bán rộng rãi trên thị trường Việt Nam. Chưa kể đến là chúng được bán với mức giá vừa phải, hợp túi tiền của người Việt. Vừa được thương hiệu là hàng “ Ngoại nhập”, lại vừa được sở hữu chúng với mức giá vừa phải thì chắc hẳn không người Việt nào mà lại không sẵn sang bỏ túi tiền của mình ra để sắm một món đồ gốm “ hang nhập “ giá rẻ.Bên cạnh đó, những mẫu thiết kế của gốm Việt Nam có vẻ ngày càng không được đặc sắc, độc và lạ đủ để thu hút, đáp ứng niềm mong mỏi của người mua hàng. Trong giai đoạn hiện nay, sức ép từ việc cạnh tranh ngày càng cao với thị trường nước ngoài. Hơn thế nữa, vì hiểu rõ những nguyên nhân khiến các sản phẩm gốm nước ta ngày càng bị quay lưng đi, các doanh nghiệp làm gốm cần phải suy nghĩ nhiều hơn về việc đem lại những GIÁ TRỊ của sản phẩm gốm mang lại cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng hiện nay không chỉ là mua những sản phẩm như bát, đĩa bình thường để phục vụ cho đời sống, họ còn thu thập những sản phẩm gốm về để làm tang giá trị cho ngôi nhà của họ.




CÂU CHUYỆN VỀ LÀNG GỐM CỔ MANG TÊN “CHU ĐẬU”

Chắc hẳn đối với những người yêu gốm sứ, tìm hiểu về các nét đặc trưng của các làng Gốm sứ thì không thể quên nhắc đến “ làng gốm Chu Đậu”. Gốm Chu Đậu nổi tiếng với các buổi đấu giá gốm, và đặc biệt là gốm nơi đây cực kỳ nổi tiếng và được biết đến rộng rãi nhờ vào kỷ xảo hoa văn được khắc trên nền gốm. Gốm Chu Đậu là một làng gốm nằm tọa lạc tại thành phố hải Dương, nổi tiếng hơn 500 năm về gốm sứ, mỗi khi du khách phương xa đến thăm thành phố Hải Dương, họ thường ghé ngang làng gốm này để được thưởng thức các tác phẩm đầy tính mỹ thuật và kỹ thuật nơi đây, hơn thế nữa, còn có thể xem các buổi đấu giá đầy kịch tính tại làng. Do đó, nhờ vào làng gốm Chu Đậu giúp thu hút khách du lịch hằng năm đến thăm thành phố Hải Dương này

  Thôn Chu Đậu là một vùng quê yên bình bên tả ngạn sông Thái Bình. Chu Đậu theo tiếng Hán có nghĩa là bến thuyền đỗ. Những năm trước đây, cư dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông nên địa danh Chu Đậu ít được mọi người biết đến. Lai lịch làng gốm cổ Chu Đậu được phát hiện một cách hết sức tình cờ:

Ảnh 1. Hình ảnh bên ngoài tại làng gốm Chu Đậu

       Năm 1980, ông Makato Anabuki, nguyên là Bí thư đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, trong một chuyến đi công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ đã trông thấy một chiếc bình gốm hoa lam cao 54cm được trưng bày tại Viện Bảo tàng Takapisaray (Istanbul). Trên bình có ghi dòng chữ Hán: "Thái Hòa bát niên Nam Sách châu, tương nhân Bùi thị Hý bút", tạm dịch là "Năm Thái Hòa thứ tám (1450) thợ gốm họ Bùi, người châu Nam Sách vẽ chơi". Và ông Makatô Anabuki đã viết thư nhờ đồng chí Ngô Duy Đông, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương thời bấy giờ xác minh giúp ông xem chiếc bình gốm quý giá đó có xuất xứ từ làng gốm nào.

       Những thông tin quý báu này giúp các cơ quan chức năng thúc đẩy việc điền dã, sưu tầm những dấu vết về làng gốm cổ. Tháng 4/1986, Sở Văn hóa-Thông tin Hải Dương tiến hành khai quật di tích Chu Đậu. Kết quả thật bất ngờ, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều di vật của một trung tâm gốm mỹ nghệ cao cấp mà từ trước đến nay chưa từng được phát hiện. Từ đó đến nay, qua tám lần khai quật ở tầng sâu 2m trên diện tích 70 nghìn m2 tại xã Thái Tân và xã Minh Tân, các nhà khảo cổ phát hiện được rất nhiều hiện vật gốm cổ cùng hơn 100 đáy lò gốm dưới lòng đất. Kết quả những cuộc khai quật không chỉ làm giới chuyên môn kinh ngạc, mà còn giúp người dân địa phương khám phá quá khứ lẫy lừng của tổ tiên mình. Trước đây, khi đào ao, xây nhà, họ thường hay bắt gặp những chiếc mâm bồng, con kê vành khăn (những công cụ chống dính của lò gốm), nhưng không ai biết những thứ đó dùng để làm gì, nên thường cho trẻ nhỏ chơi.

       Sau những kết quả của các cuộc khai quật, sản phẩm gốm Chu Đậu còn được tìm thấy ở những hai con tàu bị đắm ở vùng biển Pandanan (Philippines) và Cù Lao Chàm (Việt Nam) vào năm 1993 và 1997. Hơn 340 nghìn hiện vật gốm Chu Đậu, trong đó có khoảng 240 nghìn hiện vật còn lành đã được trục vớt, chứng tỏ gốm Chu Đậu đã được xuất cảng rộng rãi thời bấy giờ.

 Giới chuyên môn đánh giá cao gốm Chu Đậu, đó là một loại gốm "mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông". Từ dáng vẻ, chất men, họa tiết, hoa văn trang trí... tất cả đều đẹp hoàn hảo. Gốm Chu Đậu được thể hiện dưới nhiều hình thức như vẽ, khắc, họa, đắp nổi đều phóng khoáng, trữ tình, hài hòa, tinh xảo. Những họa tiết, hoa văn trên gốm thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đó là khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của cư dân đồng bằng châu thổ sông Hồng như cảnh mục đồng chăn trâu, chim đậu trên cành hoa, đàn cá bơi dưới nước, mái nhà tranh ven sông... Phương pháp chế tạo đạt trình độ cao, đó là chuốt, tạo dáng trên bàn xoay, ngắt sản phẩm thành nhiều công đoạn rồi lắp ghép lại và gia công. Các sản phẩm được thể hiện trên chất liệu men trắng hoa lam, men ngọc, hay men màu tam thái.
Ảnh 2. Hình ảnh gốm sứ tại làng Chu Đậu

   Hiện nay, 46 bảo tàng trên thế giới đang trưng bày các hiện vật gốm Chu Đậu. Trong những cuộc bán đấu giá, chiếc bình gốm hoa lam cao 54cm tại bảo tàng Topakisaray đã được trả giá tới 1 triệu USD. Hàng trăm nghìn cổ vật gốm thu thập được qua các cuộc khai quật đã xác định được Chu Đậu là trung tâm chuyên sản xuất gốm cao cấp từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Đồng thời, hàng nghìn đồ gốm Chu đậu có trong nhiều bảo tàng ở Việt Nam và nước ngoài đã xác nhận Chu Đậu là nơi làm gốm hàng đầu với chất lượng cao, loại hình và kiểu dáng đa dạng. Theo các nhà khoa học, khi chiến tranh Trịnh-Mạc xảy ra, vùng Nam Sách trong đó có làng gốm Chu Đậu đã bị tàn phá. Các nghệ nhân làng gốm đã phiêu bạt đến các vùng khác, lập nên các làng nghề gốm mới.

Gốm cổ Chu Đậu hồi sinh và trở lại thương trường
       Sống trên mảnh đất đã sản sinh ra dòng gốm quý nhưng chẳng mấy người dân Chu Đậu ngày nay thạo nghề này. Họ chỉ quẩn quanh với đồng ruộng và nghề dệt chiếu nên cuộc sống khá khó khăn. Đầu năm 2000, anh Nguyễn Hữu Thắng, Giám đốc Công ty sản xuất, dịch vụ và xuất nhập khẩu nam Hà Nội (Hapro) một người con của quê hương Nam Sách đã về Chu Đậu để thực hiện một dự án đầu tư sản xuất mặt hàng gốm xuất khẩu, nhằm khôi phục thương hiệu gốm nổi tiếng, kết hợp với hoạt động du lịch làng nghề.

  Được sự ủng hộ của chính quyền và nhân dân địa phương, tháng 10/2001, Xí nghiệp gốm Chu Đậu ra đời và đi vào hoạt động. Cơ sở mới rộng 33.250m2 được xây dựng trên dòng sông cổ chảy qua làng, với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 24 tỷ đồng. 20 nghệ nhân từ Hà Nội, Bình Dương, Biên Hòa, Hải Dương... đã nhận lời hợp tác với đơn vị, vừa nghiên cứu những nét đặc sắc của gốm Chu Đậu, vừa thiết kế những mẫu sản phẩm mới để đưa ra thị trường. 178 công nhân, chủ yếu là người địa phương được xí nghiệp tuyển chọn. Qua thời gian đào tạo, đến nay những người thợ trẻ đã khá thành thục với các thao tác làm gốm.

     Tháng 5/2003, xí nghiệp gốm Chu Đậu đã xuất khẩu lô hàng đầu tiên sang thị trường Tây Ban Nha. Từ đó đến nay, xí nghiệp đã có nhiều lô hàng xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Giám đốc xí nghiệp Nguyễn Văn Lưu cho biết: "Không chỉ phục vụ xuất khẩu, gần đây, đơn vị nhận được nhiều đơn đặt hàng của các khách hàng trong nước, gốm Chu Đậu đã hồi sinh và được đón nhận. Hơn 200 cán bộ, công nhân của xí nghiệp luôn có việc làm, thu nhập bình quân hằng tháng đạt 800 nghìn đồng/người".
Ảnh 3. Hình ảnh tại làng gốm Chu Đậu

      Không chỉ dừng lại ở việc phát triển thương mại, UBND tỉnh Hải Dương còn đầu tư để thôn có cơ hội phát triển du lịch làng nghề. Đường từ quốc lộ 5 vào làng được nâng cấp rộng rãi. Đền thờ Đặng Huyền Thông - ông tổ nghề gốm Chu Đậu được tu sửa khang trang. Các di tích lò gốm cổ, bảo tàng gốm thôn Chu Đậu - nơi lưu giữ nhiều hiện vật gốm cổ được tìm thấy qua các lần khai quật được sửa sang, mở cửa đón khách. Cuộc sống người dân Chu Đậu đã từng bước được cải thiện nhờ vào sản phẩm gốm.

Làng gốm chu Đậu ngày nay luôn tập trung các chính sách nhằm để mang hình ảnh gốm Việt Nam đến với đông đảo người dân trong và ngoài nước thưởng thức. Và để nâng cao trình độ kỹ thuật về làm gốm, người dân tại làng gốm này cho biết đã hoàn thành được công trình làm nhà trưng bày các sản phẩm gốm sứ cho khách du lịch, ngoài tham quan khách du lịch còn có thể trực tiếp tự tay làm ra những món đồ gốm sứ, tự thiết kế hoa văn lên gốm sứ tùy ý thích. Người dân và các nghệ nhân gốm sứ tại nơi đây tin rằng trong tương lai, gốm sứ Việt Nam nói chung và cũng như gốm tại làng Chu Đậu nói riêng sẽ được truyền bà rộng rãi hình ảnh đến các vùng miền khác, những đất nước khác để những người nước ngoài có thể chiêm ngưỡng các tuyệt phẩm tinh xảo về gốm ở Việt Nam mình.

Thứ Ba, 11 tháng 4, 2017

NGHỆ THUẬT TÀI HOA CỦA NHỮNG NGHỆ NHÂN GỐM SỨ NGÀY NAY

Vào ngày 20-4-2014, tại TTTM Tràng Tiền diễn ra buổi triển lãm nghệ thuật gốm sứ Việt Nam, tại buổi triển lãm đặc sắc này, khách tham quan từ người Việt Nam đến người nước ngoài ồ ạt đổ xô đến để chiêm ngưỡng cái nét văn hóa truyền thống của nghệ thuật gốm sứ lâu đời này. Hơn thế nữa, tại buổi triển lãm này, với sự góp mặt của rất nhiều những nghệ nhân làm gốm trên toàn đất nước quy tụ về đây trình diễn kỹ thuật làm gốm cho khách tham quan cùng chiêm ngưỡng. Chúng ta cùng tìm hiểu những nét đặc sắc thú vị tại buổi triển lãm này. Đây là một hoạt động nghệ thuật mang ý nghĩa nhân văn xâu xa, nhằm truyền thong điệp giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống cho đất nước.
 
Ảnh 1. Hình ảnh tại buổi triển lãm tại TTTM Tràng Tiền 
Có thể nói lịch sử mỹ thuật của người Việt là lịch sử của gốm. Suốt từ Đông Sơn đến Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn, gốm và người Việt gắn bó với nhau. Gốm là một chất liệu quen thuộc, thân thuộc của người Việt. Trên mảnh đất này từ Bắc vào Nam có không biết bao nhiều làng gốm.
Phần lớn những tác phẩm mỹ thuật đẹp nhất của người Việt đều bằng gốm, những bát hoa sen, ấm trà họa tiết cúc dây đời Lý, những thạp hoa nâu đời Trần, những bát chân cao, lọ vẽ chim phượng, chum vẽ rồng, những cặp chân đèn thờ đời Lê, Mạc, những lọ, lư hương đắp nổi, men rạn thời Nguyễn… đều là hiện vật tiêu biểu của những dòng gốm, phong cách gốm, phong cách nghệ thuật điển hình của từng thời kỳ.
Bảo tàng Anh (British Museum) ở London sở hữu một lư hương bằng gốm của Việt Nam, được làm từ đầu thế kỷ 17. Không chỉ Bảo tàng Anh, Bảo tàng Guimet ở Paris (Pháp), Bảo tàng Metropolitan ở New York (Mỹ), Bảo tàng Idemitsu ở Tokyo (Nhật)… cũng có nhiều đồ gốm cổ của Việt Nam.
Ảnh 2. Nghệ nhân đang làm gốm tại buổi triển lãm

Ông John Stevenson - giám tuyển của Bảo tàng Nghệ thuật Seatle (Mỹ) và ông John Guy - giám tuyển của Bảo tàng Victoria và Albert (Anh) đã nhận định trong cuốn “Gốm Việt Nam” được xuất bản năm 1997 bởi NXB Art Media Resources rằng: “Sự phát triển của đồ gốm Việt Nam liên quan mật thiết đến lịch sử thăng trầm của dân tộc”.
Đọc sách này, độc giả sẽ thấy đồ gốm Việt Nam có một truyền thống riêng biệt, một quá khứ huy hoàng, là một niềm hãnh diện cho người Việt Nam.
Nghệ thuật gốm của người Việt chính là chân dung tính cách của dân tộc Việt. Tinh thần gốm Việt là tinh thần người Việt. Đó là tinh thần phóng khoáng, mạnh mẽ, cởi mở, mộc mạc, giản dị, tự nhiên, không cầu kỳ, tinh xảo, chải chuốt như gốm của nhiều dân tộc khác.
Giám tuyển Lê Thiết Cương chia sẻ: “Nghệ thuật gốm Việt đẹp ở chỗ thật thà, đôn hậu không quá gò vào niêm luật, khuôn mẫu. Kỹ lưỡng quá, chính xác quá, phẳng nhẵn nuột nà gọn ghẽ quá thì không phải là bản tính của người Việt, không phải là nghệ thuật Việt. Từ cách tạo dáng cho đến màu men, cách vẽ, cách khắc hoa văn lên sản phầm đều làm như không làm, như tình cờ, tự nhiên như không. Người Việt duy cảm hơn duy lý, chú trọng trực giác hơn lý trí”.
Trên nền truyền thống ấy, các nghệ sĩ hôm nay đã tiếp nối bằng một tinh thần mới. Họ là những người đã làm mới truyền thống và cố gắng xây dựng một truyền thống mới.
Ảnh 3. Tác phẩm nghệ thuật độc đáo được trưng bày tại buổi triển lãm

Tại buổi nghệ thuật triển lãm có quy mô lớn này, có sự góp mặt của những nghệ nhân gốm luôn tâm huyết bằng cả tấm lòng với con đường nghệ thuật này, mặc dù mỗi nghệ nhân đều đến từ những vùng miền khác nhau nhưng ở họ đều mang trong mình lòng tâm huyết, tìm tòi, sáng tạo cho ra những sản phẩm gốm hiện đại ngày nay.
Nhìn những tác phẩm này, đó không chỉ là những tác phẩm đẹp, nó còn mang ý nghĩa là cả sự huyết tâm và bao công sức yêu nghề của những người làm ra chúng. Ngày nay, những nghệ nhân làm gốm ngày càng học hỏi để đổi mới sáng tạo trong những sản phẩm của họ, những sản phẩm gốm ngày càng khác hơn, lạ hơn và qua đó chứng tỏ nghệ thuật gốm Việt Nam luôn luôn phát triển để có thể sánh đôi với các cường quốc bạn bè